Mối liên hệ giữa mẹ và con gái trước thử thách thời gian

Fig. 51.jpg

Hình 50. Nhóm cựu học sinh FOEFI quay trở lại Tu viện Saint-Rambert đầu những năm 1990 – Sưu tập  : Tu viện Saint-Rambert, Tổ chức Eurasie

 

Đức hi sinh của những người mẹ, thường bị gia đình và cộng đồng xung quanh họ chối bỏ, họ chấp nhận giao phó đứa con của mình, vì lợi ích của đứa trẻ, cho FOEFI. Sự hi sinh đó không được công khai rõ ràng cho những học sinh của FOEFI vốn thắc mắc về lý do họ “bị bỏ rơi” . Các cô bé lai Á-Âu chỉ hiểu được sự vị tha tuyệt đối của mẹ mình sau này, khi họ có con riêng và nhận ra rằng họ sẽ không có can đảm làm việc đó, ngay cả vì lợi ích của con cái. Không được công nhận vào thời điểm đó, sự hi sinh ban đầu của những người mẹ là minh chứng cho tất cả những áp đặt đối với các học sinh: đã bao nhiêu lần họ nghe nói về một quyết định, một nghĩa vụ hay một điều cấm kị nào đó, và cho đến những hình phạt vì lợi ích của họ. Điều này ngụ ý sự tuân thủ tuyệt đối và chấp nhận các quyết định mà FOEFI và các Nữ tu đưa ra cho họ. Vào những năm 1970 và 1980, một số phụ nữ trẻ và các bà mẹ trẻ trở lại tu viện để dành vài ngày trong một ngôi nhà gỗ nhằm mục đích này. Đây đôi khi là cơ hội để có được thông tin về Mẹ ở quê nhà, về Cha, đặc biệt về các anh chị em của họ. Một số có thói quen quay lại theo nhóm, cùng cả chồng và con cái của họ, như thể hiện trong bức ảnh chụp trước hầm mộ vào đầu những năm 1990 (hình 50). Trong số những cựu học sinh cựu đoan nhất, một số không bao giờ muốn quay trở lại vì họ có quá nhiều “kỷ niệm xấu”, luôn đau thương. Những người khác phân biệt rõ ràng giữa mái ấm, sẽ luôn là của họ, và mô hình giáo dục mà họ nhận được ở đó và bị chối bỏ.

Fig. 52.jpg

Hình 51. Bài thơ của Monique Boldrini, đăng trên Kỉ yếu thơ Cuộc thi của La Poste (Bưu điện), Postésie, 1998

Fig. 53.JPG

Hình 52. Simone L. và người em trai ở Saint-Rambert, năm 2015 – Sưu tập  Simone L.

Gặp lại Mẹ, hoặc không

Hôn nhân và sự ra đời của một đứa trẻ là thời điểm tốt lành để trở lại với người mẹ. Monique F., sinh năm 1953, đến Bailleul năm 1959 cùng với các Nữ tu dòng Saint-Vincent-de-Paul, luôn trao đổi thư từ với mẹ. Khi trưởng thành, Bà nhiều lần cố gắng - nhưng không thành công - đưa Mẹ sang Pháp, gửi những gói hàng cho Mẹ nhưng chưa bao giờ quay trở lại Việt Nam. “Năm 1978, khi tôi kết hôn,” cô nói, “tôi đã viết một bài thơ cho mẹ tôi. Bài thơ đã được chỉnh sửa như một phần của một cuộc thi thơ. Đó là bài “Thuyền mành mơ màng”, một bài thơ về cuộc đời ”(hình 51).

Marie-Simone L. trở lại Việt Nam vào năm 1993: “Mẹ tôi đã mong chờ tôi nhưng bà đã qua đời vì bệnh viêm phế quản chỉ kéo dài ba ngày, vài tháng trước khi tôi đến. Những người anh em cùng mẹ khác cha không nói với tôi vì họ sợ tôi đổi ý. Tôi mất đi mình mẹ nhưng có quen một người em cùng mẹ khác cha hiện còn sống ở Việt Nam”. “Tôi cũng tìm thấy em trai cùng mẹ khác cha thứ hai của mình vào năm 1990. Anh ấy đến Pháp vào năm 1984 với Hội Chữ thập đỏ”. Năm 2015, họ gặp nhau ở Saint-Rambert (hình 52).

Paule Migeon, sinh năm 1941 và đến Saint-Rambert năm 1949 (cô ở hình 1, hàng thứ 2, thứ 2 từ trái sang) là một trong những phụ nữ lai Á-Âu hiếm hoi đã viết và chia sẻ ký ức của mìn (1). Cô ấy nói rằng cuộc đoàn tụ với mẹ của cô ấy hai mươi năm sau khi xa cách không diễn ra tốt đẹp và cô ấy đã cắt đứt quan hệ với bà ấy. Thông tin về cái chết của Bà, Cô được biết từ một bức thư kèm theo một số bức ảnh gia đình, cô viết: “Tôi không buồn. Chỉ đôi khi tôi tự hỏi ... Cuộc sống của tôi sẽ ra sao nếu mẹ tôi ...”

Ghi chú :
(1) Paule Migeon, Chinoise verte, s. d., s. l. Trò chuyện với Paule Migeon ngày 26 tháng 1 năm 2018.
Fig. 54.jpg

Hình 53. Bảng treo ảnh trong một cuộc gặp gỡ của Hội hữu nghị con lai Á-Âu ở Tu viện Saint-Rambert, tháng 6 năm 2019 –

Fig. 55.png

Hình 54. Bảng treo ảnh trong do Paule Migeon thực hiện,  trưng bày tại cuộc gặp mặt Hội hữu nghị con lai Á-Âu ở Saint-Rambert-en-Nugey, tháng 6 năm 2019 – Ảnh : Yves Denéchère

Fig. 56.jpg

Hình 55. Con gái của Marie-Hélène B.-M. mặc áo dài vào ngày cưới, năm 2000 – Sưu tập : Marie-Hélène B.-M.

Hình ảnh và từ ngữ

Các cuộc gặp mặt hàng năm do Hội hữu nghị Amicale des Eurasiennes tổ chức tại Tu viện Saint-Rambert hiện là cơ hội để các thành viên chia sẻ nhiều bức ảnh (hình 53). Thậm chí, đây còn là một trong những hoạt động được yêu thích: trên những bức ảnh nhóm hay lớp, họ tìm được ai là ai, ai đã trưởng thành như thế nào ... Nhưng ảnh đôi về mẹ và con gái không được truyền tay nhiều, vì e thẹn. Việc xây dựng ký ức thân mật từ những bức ảnh này không thuộc về nhóm. Là một nhiếp ảnh gia nghiệp dư, Paule Migeon chia sẻ những bức ảnh về cuộc sống của mình trong những cuộc gặp gỡ này. Trên bảng treo ảnh (hình 54), cô đã tập hợp những bức chân dung của những người có tầm quan trọng với tuổi thơ của cô : Mẹ người Việt Nam, Cha là quân nhân Pháp (qua đời năm 1945), Mẹ Jeanne, Marguerite Graffeuil, các thành viên trong gia đình cô và một số bức ảnh của một trong số cô ấy trở lại Việt Nam, cùng với những con lai Á-Âu khác.

Mối quan hệ mẹ/ con gái bền chặt qua nhiều thế hệ được chứng minh qua bức ảnh con gái của Binta/ Marie-Hélène, mong muốn được mặc áo dài trong ngày cưới của mình (hình 55) hoặc bức ảnh dựng do Marie-Dominique thực hiện để tìm điểm tương đồng giữa Mẹ và con gái của Cô (hình 56).

Fig. 57.jpeg

Hình 56. Bức ảnh dựng do Marie-Dominique L.-LC. thực hiện để chứng minh những điểm tương đồng giữa Mẹ và con gái Cô, năm 2000 – Sưu tập  : Marie-Dominique L.-LC.

Mối liên hệ giữa mẹ và con gái trước thử thách thời gian